Sinh hoạt chuyên đề tổ1,2,3

Lượt xem:

Đọc bài viết

CHUYÊN ĐỀ

MỘT SỐ BIỆN PHÁP VIẾT CHỮ ĐÚNG – RÈN CHỮ ĐẸP

CHO HỌC SINH LỚP 1

 

  1. LÍ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
  2. Sự cần thiết của chuyên đề:

Như chúng ta đã biết năm học 2024-2025 là năm thứ năm áp dụng chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 1. Trong chương trình với môn học Tiếng Việt của lớp 1 quy định rõ Tiếng Việt là môn học bắt buộc của chương trình Tiểu học. Như vậy chúng ta thấy rằng dù ở thời điểm nào thì giáo dục vẫn luôn đặc biệt coi trọng môn Tiếng Việt. Trong đó, kỹ năng viết là một trong 4 kỹ năng mà các em cần phải nắm được ngay từ lớp 1. Khi chúng ta dạy cho các em môn Tiếng Việt và Tập viết Tiếng Việt nghĩa là chúng ta trao cho các em chiếc chìa khóa để mở ra những cánh cổng bước vào tương lai. Góp phần giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt.

Ông cha ta đã có câu “Nét chữ nết người”, câu nói ấy với hàm ý nét chữ thể hiện tính cách của một con người và thông qua chữ viết để giáo dục nhân cách con người. Dạy tập viết cho trẻ là bồi dưỡng cho trẻ những đức tính tốt đẹp như: tính kiên trì, tính cẩn thận , tinh thần kỷ luật, óc thẩm mỹ sáng tạo. Ngày nay mặc dù có rất nhiều phương tiện INTERNET hiện đại xong chữ viết vẫn giữ được vai trò vô cùng quan trọng đối với xã hội, nhất là trong công tác giáo dục.

Từ những lí do nêu trên, tổ đã nghiên cứu, viết chuyên đề: Một số biện pháp Viết chữ đúng – Rèn chữ đẹp cho học sinh lớp 1”

  1. Mục đích của chuyên đề:

– Giúp cho học sinh hình thành nhân cách con người qua chữ viết.

–  Phong trào “vở sạch – chữ đẹp” được phát triển và nhân rộng trong nhà trường.

–  Góp phần rèn luyện đạo đức và tính cách con người.

– Viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện tính cẩn thận, thận trọng trong công việc, lòng tự tin của học sinh, giúp học sinh tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn.

  1. THỰC TRẠNG.
  2. Thuận lợi.

– Cơ sở của trường thuận lợi, đầy đủ đảm bảo, an toàn, tạo  sự  hứng thú cho học sinh đến trường. Được sự quan tâm chỉ đạo ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn.

– Giờ học được tiến hành nhẹ nhàng và đạt hiệu quả.

– Giáo viên có kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, giờ nào việc đó.

– Nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên học tập lẫn nhau trao dồi kiến thức qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề,/

– Giáo viên luôn luôn tìm tòi thay đổi làm mới hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục.

– Giáo viên luôn luôn gần gũi ân cần với học sinh, sự tận tình chăm sóc của hội đồng sư phạm trong nhà trường, tạo sự an tâm cho phụ huynh

  1. Khó khăn:

* Về phía học sinh:

Như chúng ta đã biết một lớp học có nhiều đối tượng học sinh. Những em học thuận lợi thường có tính cẩn thận, trình bày sạch sẽ, nhanh nhẹn trong mọi hoạt động. Còn ngược lại những em học sinh học còn hạn chế thì hay lười học, không đem đầy đủ dụng cụ học tập đến lớp. Quan trọng hơn là tư thế ngồi viết, cách cầm bút, đặt vở chưa phù hợp. Khi giáo viên giảng bài các em hay làm việc riêng không chú ý nghe giảng. Khi viết chữ các em chưa nắm rõ cấu tạo của chữ viết như: các nét cơ bản, độ cao các con chữ, khoảng cách…Việc giữ vở sạch sách vở hoặc chọn bút, viết cũng chưa có ý thức. Học sinh thể hiện chữ viết của mình một cách tùy tiện chữ thì mất nét, sai cỡ chữ, dấu thanh đặt sai vị trí, khoảng cách giữa các con chữ chưa đúng.

* Về phía phụ huynh:

Một số phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn, đi làm ăn xa để con lại cho ông bà trông nom chăm sóc nên việc quan tâm đến các em còn hạn chế. Việc kiểm tra tập vở, đồ dùng học tập hằng ngày của các em không được thường xuyên. Do đó các em tự học là chính, dẫn đến các em lơ là trong việc học, xem nhẹ việc học. Vì vậy mà kết quả học tập của các em còn chưa cao, đặc biệt phần viết chữ còn cẩu thả.

III. NỘI DUNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP.

1.Nội dung:

Nội dung của việc rèn chữ viết cho học sinh phải cụ thể bổ ích, phải gắn với nhu cầu hứng thú của học sinh và phù hợp với tâm lí, khả năng tiếp thu và trình độ hiểu biết của học sinh.

  1. Các giải pháp:

2.1. Nêu những tấm gương thực tế về việc rèn chữ.

Khi đã truyền cảm hứng với học sinh, giáo viên tiếp tục bồi dưỡng cho các em lòng say mê, tinh thần quyết tâm luyện chữ bằng việc kể cho các em nghe những tấm gương thực tế về việc rèn chữ từ xưa đến nay. Ví dụ như tấm gương về ông Cao Bá Quát, tấm gương luyện chữ của anh Nguyễn Ngọc Ký hay gần nhất là những tấm gương của những học sinh khóa trước mà giáo viên đã từng dạy dỗ. Giáo viên cho các em xem những bài viết chữ của những học sinh khóa trước mà giáo viên đã dạy và đã đạt giải cao trong những kì thi giao lưu viết chữ đẹp các cấp.

 “” Động viên, khích lệ kịp thời.

Khi các em đã có được mục tiêu là làm sao để viết được chữ đẹp như cô và các anh chị lớp trước thì giáo lại tiếp thêm động lực, niềm tin cho các em bằng những lời động viên, khích lệ kịp thời. Ví dụ như cô tin em sẽ làm được, hoặc cô tin em nhất định sẽ làm được, thâm chí em có thể viết đẹp hơn cô và các bạn nên nếu như em thật sự quyết tâm và sau những lời động viên ấy thì giáo viên nhận thấy là học sinh đã tự tin hơn và tích cực hơn trong những giờ tập viết. Ngoài những lời động viên thì giáo viên còn khích lệ tinh thần luyện chữ của các em bằng những stikers khen ngợi đẹp mắt, ngộ nghĩnh, phù hợp với lứa tuổi của các em cho nên các em rất thích luyện chữ và cố gắng rèn những nét chữ thật đẹp và chính xác.

2.2. Thay đổi ngôn từ phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 1 và cách xác định ô ly, dòng kẻ đặc biệt.

Đây là giải pháp mà tổ vô cùng tâm đắc. Bởi đây là giải pháp mà rất dễ thực hiện mà mang lại hiệu quả cao, đang tạo hứng thú cho học sinh trong mỗi tiết học. Đối với học sinh lớp 1 thì những ngôn từ, thuật ngữ chuyên môn liên quan về viết chữ đẹp thật sự các em khó hiểu và tổ đã sử dụng thay đổi ngôn từ đó bằng những từ ngữ liên quan đến thực tế hằng ngày của các em, gần gũi với các em để các em cảm thấy dễ hiểu hơn và hứng thú hơn trong những tiết học.

2.2.1. Xác định đường kẻ ngang số 1.

Khi áp dụng vào thì giáo viên với học sinh chia sẻ với nhau rằng hằng ngày chúng ta di chuyển, chúng ta đi lại trên đường và liên tưởng sang chữ viết cũng giống như vậy nếu như chúng ta đi lại ở trên mặt đất thì chữ viết cũng đi lại ở trên 1 đường đi của chúng và đường đi của chúng chính là đường kẻ ngang số 1 (đường kẻ đậm nhất). Sau đó giáo viên chỉ cho các em đó chính là đường kẻ ngang đậm nhất. Cách gọi này rất thuận lợi trong việc sửa lỗi cho học sinh.

Ví dụ như sau: khi học sinh không viết trên đường kể số 1, thường thì giáo viên sẽ nhận xét: em viết chữ không chạm vào đường kẻ ngang số 1 rồi hoặc là chữ viết cao hơn đường kẻ ngang số 1 hoặc thấp hơn đường kẻ ngang số 1 thay vào đó thì chúng ta sẽ nói với các em là: chúng mình quan sát xem chữ n của con đang bị bay lên trời mất rồi cần hạ thấp xuống mặt đất thôi. Hoặc ở trường hợp thứ 2 thì giáo viên sẽ nói là chữ thì phải đứng ở trên mặt đất, em xem chữ này chân đã bị thụt xuống hố rồi cần phải kéo chân lên mặt đất để tiếp tục đi nào. Và khi sửa lỗi như vậy học sinh rất dễ hiểu.

2.2.2. Xác định chiều cao con chữ bằng phương pháp xây nhà tầng.

* Hướng dẫn học sinh xây nhà tầng trên bảng con:

Khi xác định chiều cao của con chữ, việc mà các em phải xác định được ô ly, dòng kẻ, chiều cao là ngay vào đầu năm học. Tuy nhiên trong thời điểm đó các em mới bước vào lớp 1 việc đó vô cùng khó khăn nhưng các em có những tư duy về vẽ nhà rất đơn giản vì đã được làm quen từ mầm non. Ngôi nhà có thể là chỉ vẽ bằng một ô thôi cũng đã được coi là ngôi nhà rồi. Chính vì vậy giáo viên  đã hướng dẫn các em xác định chiều cao con chữ bằng phương pháp xây nhà tầng. Giáo viên  thực hiện cụ thể bởi hai bước như sau:

– Cụ thể giáo viên hướng dẫn các em xây bằng cách nhà thì bắt đầu xây từ mặt đất xây lên vậy từ mặt đất các em xây cho cô một ngôi nhà một tầng và  hướng dẫn các em xây nhà có chiều cao là cao 1 ô ly và rộng 1 ô ly. Rất là đơn giản và các em thực hiện rất nhanh. Sau đó cách ra một ô đất các em xây cho cô ngôi nhà 2 tầng. Tiếp tục cách ra một ô đất nữa xây cho cô một ngôi nhà ba tầng. Đến đây các em đã thực hiện nhanh hơn thì cứ như vậy vẽ cho cô ngôi nhà 4 tầng, 5 tầng, ngôi nhà có 2 tầng và 2 tầng hầm, ngôi nhà có hai tầng 3 tầng hầm và ngôi nhà có 5 tầng và 3 tầng hầm và đây là ngôi nhà cao nhất. Đặc biệt ở những ngôi nhà có tầng hầm giáo viên hướng dẫn các em bằng cách sử dụng phấn màu để các em dễ hiểu hơn.

*Trò chơi Tìm nhà cho chữ.

Khi các em xây được nhà rồi thì giáo viên giới thiệu với các em và vừa rồi chúng mình đã xây nhà cho chữ. Bây giờ chúng mình cùng nhau đi tìm nhà cho những con chữ cụ thể. Và đó chính là nội dung của bước thứ hai mà giáo viên đã tổ chức trò chơi Tìm nhà cho chữ . Với trò chơi này giáo đã thực hiện cụ thể như sau: Đầu tiên giáo viên sẽ lấy ra một mẫu chữ, giới thiệu cho học sinh đó là chữ gì, sau đó cho học sinh đọc lại và tiếp tục yêu cầu các em quan sát mẫu chữ đó và so sánh với chiều cao với các ngôi nhà mà các em vừa xây. Ví dụ giáo viên lấy ra chữ n, giới thiệu cho các em đây là chữ n viết thường rồi mời các em đọc lại, sau khi học sinh đọc tôi lại cho các em quan sát thật kỹ chữ n và cho biết chữ n cao bằng tòa nhà mấy tầng. Trò chơi này giáo viên đã thực hiện trên lớp và nhận thấy rằng học sinh rất là dễ dàng quan sát, phát hiện ra chữ n cao bằng ngôi nhà 2 tầng. Cứ thế lần lượt với các chữ cái thì học sinh sẽ phát hiện ra rất nhanh, ngoài chữ n thì còn rất nhiều các chữ khác cũng có chiều cao bằng ngôi nhà 2 tầng ví dụ o, ô, ơ…và có duy nhất 1 chữ cái có chiều cao bằng ngôi nhà 3 tầng đó là chữ t còn ngôi nhà 4 tầng là chiều cao của chữ d và chữ đ. Tiếp theo là những chữ có nét khuyết trên như chữ l, b, h, k. Và ngôi nhà 2 tầng và 2 tầng hầm là ngôi nhà của chữ p hay là những chữ cái có nét khuyết dưới như chữ y,g và cuối cùng ngôi nhà cao nhất nó chỉ dành cho đúng một chữ đó chính là chữ gh. Khi thực hiện trò chơi này giáo viên thấy học sinh rất là tích cực, ghi nhớ rất tốt về những biểu tượng về chiều cao của những con chữ cỡ nhỡ mà sắp tới các em sẽ được học.

2.2.3. Thay đổi ngôn từ phù hợp với lứa tuổi, tạo hứng thú học tập cho học sinh.

Khi dạy viết những con chữ cụ thể giáo viên thường xuyên thay đổi ngôn từ phù hợp với lứa tuổi để tạo hứng thú học tập cho học sinh. Cụ thể giáo viên và học sinh coi mỗi chữ viết là một cơ thể hoàn chỉnh. Cơ thể của chúng ta gồm các bộ phận và liên tưởng sang chữ viết cũng giống như vậy những bộ phận của một con chữ chính là các nét cơ bản. Vì mỗi chữ cái là sự kết hợp chặt chẽ của các nét cơ bản. Ví dụ:

Khi dạy chữ i chẳng hạn thì chúng ta biết rằng chữ i gồm 3 nét, nét thứ nhất là nét hất, nét thứ hai là nét móc ngược và nét thứ 3 là dấu chấm. Như vậy, trong 3 nét này chúng ta liên tưởng trong cơ thể, chúng ta coi nét hất chính là tay nét móc ngược là chân đá lên và dấu chấm là mắt. Và khi tổ chức cho học sinh học chữ i giáo viên cũng cho học sinh học kết hợp với động tác cụ thể như sau chữ i gồm có tay, chân đá lên và mắt ở trên đầu. Và khi làm như vậy học sinh rất hứng thú và các em ghi nhớ về biểu tượng để viết chữ i một cách chính xác. Hoặc là khi sửa lỗi cho học sinh thì các em thường mắc hai lỗi. Lỗi thứ nhất là mất nét, lỗi thứ hai là lỗi rời nét (như hình ảnh trên ví dụ). Với lỗi rời nét thì giáo viên nói rằng các em quan sát nè tay và chân thì chỉ dính ở khớp vai thôi chứ không dính toàn thân như thế này các em cần phải cách thẳng tay ra. Hoặc ở trường hợp 2 các em quan sát xem tay của chữ i đang bị rời ra khỏi thân mất rồi. Hoặc khi giáo viên dạy cho các em bài tập nối chữ t qua chữ i. Ta muốn nhấn mạnh vị trí dừng bút của chữ t chính là điểm đặt bút của chữ i. Giáo viên sẽ nói các em quan sát xem tay của chữ i đang nắm lấy chân của chữ t. Những cái ngôn từ như vậy rất hấp dẫn, hứng thú với học sinh lớp 1.

Khi dạy chữ, chúng ta biết rằng chữ o nhìn rất đơn giản thế nhưng viết thì không hề đơn giản. Các em thường mắc 2 lỗi. Thứ nhất viết bé quá tạo cảm giác chữ bị dài quá. Thứ hai là viết rộng ra 2 ô ly như ví dụ ở hình trên. Giáo viên sẽ nói bạn chữ o có một thân hình rất đẹp, tuy nhiên bạn ăn ít quá nên bạn bị suy dinh dưỡng. Vậy để cho bạn ăn thêm nửa cái bánh nữa là bạn đẹp luôn. Và giáo viên sẽ sửa cho các em bằng phấn khác màu. Hoặc là trong trường hợp thứ 2 giáo viên sẽ nói các em thấy bạn này có béo phì không, bạn này ăn nhiều quá bị béo phì rồi. Vậy chúng ta phải cho bạn bớt ăn đi nửa cái bánh thì bạn cũng sẽ rất xinh đẹp. Khi thực hiện giải pháp này thì giáo viên thấy trong mỗi tiết học rất là vui vẻ, rất là hứng thú cho các em đặc biệt trong phần sửa lỗi.

  1. SỰ LAN TỎA CỦA CHUYÊN ĐỀ:

      Chuyên đề đã được áp dụng đối với học sinh khối 1 của trường Tiểu học Ba Động.

  1. KẾT LUẬN:

Để thực hiện thành công chuyên đề trên, trước hết người giáo viên phải thật sự nhiệt huyết với nghề, quan tâm chia sẻ những khó khăn của học sinh trong học tập cũng như trong cuộc sống, cần nhẹ nhàng nhắc nhở khi học sinh của mình viết chưa đúng, chưa đẹp. Đồng thời không ngừng học hỏi, trau dồi kinh nghiệm dạy học, soạn giảng chu đáo trước khi lên lớp. Linh hoạt trong phương pháp và hình thức tổ chức dạy học để phù hợp với các đối tượng  học sinh.

Giúp học sinh nắm vững cấu tạo chữ viết của các con chữ trong Tiếng Việt, có kĩ năng viết đúng, viết đẹp kịp tốc độ tạo nền tảng cho các em học tốt môn Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung.

Thông qua rèn chữ viết đẹp để hình thành nhân cách, đức tính cẩn thận, tác phong gọn gàng, nhanh nhẹn cho học sinh. Từ đó các em biết vận dụng trong học tập và kĩ năng sống hàng ngày .

Các giải pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp một được nêu trong chuyên đề này dễ vận dụng và dễ áp dụng cho nhiều đối tượng học sinh trong một lớp.

Trên đây là một số giải pháp giúp học sinh “viết chữ đúng – rèn chữ đẹp”cho

học sinh lớp 1 mà tổ đã nghiên cứu và đưa vào thực nghiệm cho học sinh, rất mong sự đóng góp ý kiến của chuyên môn, đồng nghiệp để chuyên đề của tổ hoàn thiện hơn.